Xu hướng (trend) có 3 cấp: xu hướng chính, xu hướng trung gian, xu hướng ngắn hạn. Theo lý thuyết Dow xu hướng chính có thể kéo hơn một năm trở lên. Xu hướng trung gian từ 3 tuần đến nhiều tháng, xu hướng ngắn hạn là những gì kéo dài dưới 3 tuần.
Hầu hết các hệ thống chỉ báo xu hướng là theo dõi xu hướng trung gian.
Vai trò của đường xu hướng:
• phục vụ chiến lược Trend following để nhập cuộc thị trường.
• Xác định chiều hướng của thị trường.
• Xác định dấu hiệu đảo chiều
• Xác định dấu hiệu nối tiếp xu hướng
• Xác định các điểm kháng cự và giúp sức.
Cách sử dụng đường xu hướng sao cho hiệu quả
Phân tích kỹ thuật chứng khoán đường xu hướng
Khi biểu đồ lạnh lẽo chạy, đồng nghĩa với việc sẽ phát triển những điểm cao, thấp khác biệt. Tuy nhiên nếu người chơi nhìn bao la ra sẽ thấy những điểm cao, thấp này đang có xu hướng đi lên hoặc đi xuống. Từ đó bạn sẽ xác định được đường xu hướng đơn giản. Thị trường tăng trưởng sẽ có xu hướng tạo một đường giúp sức cũng tăng dần theo.
Phân tích kỹ thuật chứng khoán đường xu hướng
bạn có thể nhìn thấy trong hình, tất cả các giai đoạn lạnh lẽo hồi ngược xuống đều không vượt qua được đường xu hướng này. (4 Điểm khoanh tròn). Suy ra là người chơi có thể sử dụng đường xu hướng này để dự đoán điểm đảo chiều tiếp theo trên thị trường. Làm ngược lại cũng hoàn toàn được, vẽ đường xu hướng kháng cự và tóm đúng mực điểm đảo chiều xuống khi lạnh lẽo chạm vào đường xu hướng.
Hình bên dưới bạn đơn giản nhìn thấy xu hướng kháng cự xong xuôi tại đường xu hướng ở phía trên và đảo chiều đi xuống lại. Qua hai hình trên bạn đã rõ hơn mục đích của đường xu hướng rồi chứ. Đường xu hướng giúp game thủ xác định ra vùng giúp đỡ và kháng cự.
Phân tích kỹ thuật chứng khoán đường xu hướng
Khi đường xu hướng bị phá vỡ thì sao? Khi đường xu hướng bị phá vỡ thì sẽ khó phân tích hơn tuy nhiên thị trường vẫn luôn phát hành những điểm trợ giúp, kháng cự mới. Hình dưới là một ví dụ của việc đường xu hướng tạo kháng cự bị phá vỡ và trở thành đường xu hướng tạo giúp đỡ. Khi thị trường đi xuống nó lại đẩy lạnh lên.
Những gì được trình diễn trong bài viết này là những tính năng chủ công của đường xu hướng. Tất nhiên là chúng ta có thể làm nhiều việc hơn với đường xu hướng. Hãy đón đọc những bài sau để biết được cách sử dụng đường xu hướng tốt hơn (sẽ cập nhật sau)
Cách xử lý khi đường xu hướng bị phá vỡ
Sự phá vỡ xu hướng cổ xưa
Ví dụ về tín hiệu đảo ngược tại các đường được vẽ
Cấu trúc được sản xuất (tốt và xấu)
Tổng kết về đường xu hướng
Khi thị trường chuyển động lên xuống sẽ tạo ra những điểm trợ giúp và kháng cự ở nhiều mức lạnh lẽo khác nhau. Từ đó người chơi có thể xác định được đường xu hướng và thành lập chiến lược giao dịch dựa trên những đường xu hướng đó
Làm Trader hay theo trường phái phân tích kỹ thuật chứng khoán chắc hẳn ai cũng biết đường trung bình dế yêu (MA) và đường Bollinger: một kỹ thuật làm cho lạnh trên đồ thị trở nên “mềm mại hơn” và cho chúng ta thấy được tín hiệu của thị trường tốt nhất và đưa ra những quyết định mua bán chứng khoán tốt nhất.
Ở đây có hai nhân tố cần phải hiểu là trung bình và động.
* Trung bình có nghĩa rằng, một Moving Average (một MA) là một mức giá trung bình của chứng khoán tại một thời điểm. Chi tiết theo toán học:
một MA = tổng các mức rét mướt của chứng khoán trong n khoảng thời gian gần nhất / n
Ví dụ, lấy các mức lạnh của chứng khoán trong 25 ngày gần nhất và chia cho 25 ta sẽ có thành tựu là lạnh trung bình của chứng khoán trong vòng 25 ngày qua. Đây chính là một MA 25 ngày của chứng khoán đó. Nhiều mức rét mướt trung bình đó phân thành một dãy liên tiếp gọi là đường Moving Averages (MA).
* Động được hiểu là do n mức lạnh chứng khoán luôn chuyển đổi nên các mức rét trung bình cũng chuyển đổi theo làm cho đường trung bình luôn di chuyển (hay còn gọi là di động) theo các mức lạnh lẽo.
Hình vẽ – Đường trung bình động SMA của 25 ngày
Ý nghĩa của đường trung bình động Moving Averages (MA) trong phân tích kỹ thuật chứng khoán
Vì đường trung bình MA là giá trung bình của chứng khoán 25 ngày qua nên nó đại diện cho sự đồng thuận của các nhà đầu tư mong đợi trong 25 ngày gần nhất. Do đó, nếu rét mướt chứng khoán là trên đường trung bình MA của nó có nghĩa là kỳ vọng hiện tại của các nhà đầu tư (tức mức lạnh lẽo hiện tại) cao hơn so với kỳ vọng trung bình của họ trong 25 ngày qua, và các nhà đầu tư đang trở nên lạc quan hơn về lạnh chứng khoán dẫn đến tài năng giá chứng khoán sẽ tăng.
Ngược lại, nếu lạnh ngày hôm nay là dưới điểm trung bình động của nó cho thấy rằng kỳ vọng hiện tại của các nhà đầu tư là dưới mức mong đợi trung bình của họ trong vòng 25 ngày qua, và điều đó có nghĩa là họ đang bi thảm hơn về lạnh chứng khoán dẫn đến khả năng rét mướt chứng khoán sẽ giảm.
Các người chơi muốn xem cách dùng đường MA có thể xem cach dung duong ma.
Đường trung bình MA nên được dùng câu kết với các chỉ báo kỹ thuật khác như MACD, RSI, Stochastic… và các đường xu hướng để có thể chọn được các điểm mua bán ra vào hợp lý.
BOLLINGER BANDS – DẢI BOLLINGER
Giới thiệu
Được John Bollinger tạo ra, Bollinger Bands là một khí cụ cho phép người sử dụng so sánh độ bất định hình và các mức giá liên quan theo một khoảng thời gian. Khí cụ này bao gồm 03 đường được xây dừng để xung quanh phần nhiều hoạt động của giá buốt một cổ phiếu.
Một đường trung bình ở giữa
Một đường bên trên (SMA cộng 2 standard deviations)
Một đường bên dưới (SMA trừ 2 standard deviations)
Standard deviation là một đơn vị đo lường thống kê cung cấp sự đánh giá độ bất bất biến của đồ thị lạnh lẽo. Sử dụng standard deviation đảm bảo các đường bollinger sẽ phục vụ nhanh với các cô động giá buốt và phản hồi độ bất bất biến cao hay thấp. Rét tăng hoặc giảm chợt ngột sẽ phân thành dãy băng rộng rãi.
Dải bollingger bands
Sử dụng
Ngoài việc xác định quan hệ giữa các mức lạnh và độ bất định hình, đường Bollinger Bands có thể liên kết với biến động lạnh lẽo và các công cụ khác để đưa ra tín hiệu và dự báo các cô động quan trọng.
Đường rét mướt xuống dải Bollinger dưới: tín hiệu mua được hiện ra khi đường lạnh lẽo xuống và chạm dải Bollinger dưới thì khả năng bật lên lại của đường giá sẽ có thể hiện ra.
Đường rét mướt lên dải Bollinger trên: tín hiệu bán được hiện ra khi đường giá buốt lên và chạm dải Bollinger trên thì tài năng bật xuống lại của đường rét mướt sẽ có thể hình thành.
Double tín hiệu mua : một tín hiệu Double Bottom Buy được tạo thành khi lạnh lẽo vượt qua đường bollinger dưới và nằm bên trên đường bollinger dưới sau khi tạo tiếp mức lạnh lẽo thấp tiếp theo. Mức rét mướt thấp có thể cao hơn hoặc thấp hơn so với mức giá buốt thấp trước đó. Điều quan trọng là mức thấp thứ hai phải nằm trên đường bollinger dưới. Giá chuyển thanh lịch xu hướng lên được xác định khi giá di chuyển lên trên đường bollinger giữa.
Double tín hiệu bán : Một tín hiệu Double Top Sell được chia thành khi giá buốt vượt qua đường bollinger trên và đỉnh của đợt tăng lạnh lẽo tiếp tục không vượt qua được đường bollinger trên. Rét chuyển quý phái xu hướng xuống được xác định khi giá di chuyển xuống bên dưới đường bollinger giữa.
Việc chỉnh sửa lạnh lẽo bỗng ngột có thể xảy ra sau khi dãy bollinger thu hẹp lại và sự bất định hình thấp. Trong ví dụ này, đường bollinger không đưa ra bất kỳ tín hiệu nào về xu hướng của rét mướt trong thời gian tới. Xu hướng phải được xác định bằng cách sử dụng các công cụ phân tích kỹ thuật khác. Nhiều cổ phiếu chuyển lịch sự cô động mạnh sau một khoảng thời gian biến động ít. Việc sử dụng đường bollinger có thể xác định mức độ biến động đơn giản bằng quan sát đồ thị. Dãy băng hẹp cho biết thị trường ít bất định và dãy băng mênh mông cho biết thị trường bất định mạnh. Độ bất định có thể cần thiết với những bạn “options” bởi vì giá buốt của “options” sẽ rẻ hơn khi độ bất định thấp.
Dải Bollinger thu hẹp: dãy băng bollinger thu hẹp trước khi có bất định mạnh
Kết luận
mặc dầu đường Bollinger có thể giúp tạo các tín hiệu mua và bán, nhưng đường bollinger không được xây dừng để xác định xu hướng trong tương lai. Đường Bollinger được thiết kế để xẻ sung cho việc phân tích kỹ thuật và các công cụ khác. Bạn dạng thân đường Bollinger đáp ứng 02 tác dụng chính :
Xác định các khoảng thời gian độ bất định cao hoặc thấp
Xác định các khoảng thời gian lạnh lẽo đang ở mức kháng cự hay hỗ trợ.
Như đã đề cập ở trên, rét mướt cổ phiếu có thể chuyển đổi qua lại giữa biến động mạnh và biến động thấp. Đường Bollinger có thể xác định khoảng thời gian biến động ít do đó có thể đáp ứng vai trò một dụng cụ cảnh báo động thái của giá buốt cổ phiếu. Trong phân tích kỹ thuật, kết hợp cùng các khí cụ khác, đường bollinger có thể giúp xác định chiều của một bất định mạnh.
Hãy nhớ rằng tín hiệu mua và bán không được đưa ra khi lạnh chạm đường bollinger trên và dưới. Các mức này chỉ cho biết rét mướt đang ở mức cao hoặc thấp trên một nền tảng tương đối.
Trong phân tách kỹ thuật chứng khoán thì lý thuyết Dow là cơ sở trước tiên cho mọi nghiên cứu kĩ thuật trên thị trường. Nó là cơ sở để xây đắp cũng như đối tượng nghiên cứu của lý thuyết chính là những bất định của phiên bản thân thị trường (thể hiện trong chỉ số làng nhàng của thị trường) và không hề dựa trên cùng cơ sở của phân tích cơ bản là các thống kê hoạt động kinh doanh của đơn vị.
Video bài giảng phân tích kỹ thuật thuật về lý thuyết Dow của thầy Trương Bình
LỊCH SỬ hiện ra VÀ tạo ra LÝ THUYẾT DOW TRONG phân tách KỸ THUẬT CHỨNG KHOÁN
Trong những biên chép của người đầu tiên đề ra lý thuyết này, Charles. H. Dow, có rất nhiều điều chứng tỏ rằng tác giả không hề nghĩ lý thuyết của mình sẽ trở thành một khí cụ sử dụng cho dự báo thị trường chứng khoán hay thậm chí nó đã trở thành một chỉ dẫn chung cho các nhà đầu bốn. Những biên chép ấy chỉ nói lên rằng, ông muốn lý thuyết của mình sẽ trở thành một thước đo cô động chung của thị trường. Dow xây dựng doanh nghiệp “Dịch vụ thông báo tài chính Dow-Jones” và được mọi người biết tới với việc tìm ra chỉ số bình quân thị trường chứng khoán. Những phép tắc cơ bản của học thuyết (ngày nay được đặt theo tên ông) đã được ông phác thảo ra trong một bài nghiên cứu mà ông viết cho “Tạp Chí Phố Wall”. Sau khi Dow mất, năm 1902, người kế tục ông làm biên tập cho tờ nhật báo, William. P. Hamilton, đã tiếp tục việc nghiên cứu lý thuyết này. Sau 27 năm nghiến cứu và viết các bài báo, ông đã công ty và cấu trúc lại thành Lý thuyết Dow như ngày nay.
tò mò về lý thuyết của Dow, trước tiên ta phải nghiên cứu tới chỉ số nhàng nhàng của thị trường. Nhìn chung giá chứng khoán của tất cả các đơn vị đều cùng lên và xuống. Ngoài ra, một số cổ phiếu lại chuyển động theo hướng trái lại xu thế tầm thường của các cổ phiếu khác, cho dù là chỉ trong vài ngày hoặc vài tuần. Thực tế cho thấy khi thị trường lên giá thì giá của một số chứng khoán tăng mạnh hơn những chứng khoán khác, còn khi thị trường xuống giá thì một số chứng khoán giảm giá nhanh lẹ Bên cạnh đó có một số dị thường tăng lên, nhưng thực tế vẫn chứng minh rằng hầu như tất cả các chứng khoán đều nghiêng ngả theo cùng một xu thế thông thường.
Cùng với những nỗ lực nghiên cứu của mình, Charles Dow là người đã đưa ra khái niệm về “chỉ số giá bình quân” nhằm phản chiếu xu thế thông thường của một số cổ phiếu đại diện cho thị trường. Nhị loại chỉ số bình quân Dow-Jones được xuất hiện vào năm 1897 và vẫn còn cho đến cho tới ngày nay được Dow tìm ra và vận dụng trong các nghiên cứu của ông về xu thế chung của thị trường. Một trong hai loại chỉ số ấy là chỉ số của 20 đơn vị hỏa xa, loại còn lại gọi là chỉ số bình quân công nghiệp Dow Jones thuộc các ngành khác bao gồm 12 công ty mạnh nhất vào thời kỳ đó. Con số này tăng lên 20 tổ chức vào năm 1916 và tới 1928 là 30 doanh nghiệp.
12 phương pháp quan yếu TRONG LÝ THUYẾT DOW ĐỂ phân tách KỸ THUẬT CHỨNG KHOÁN
Khi nghiên cứu lý thuyết Dow có 12 cách thức quan yếu cần chú ý sau:
1. Chỉ số bình quân thị trường đề đạt tất cả (trừ hành động của Chúa)
vì nó phản ảnh những hoạt động có liên kết với nhau của hàng nghìn nhà đầu tư, gồm cả những người có kinh nghiệm dự đoán thị trường giỏi nhất, có những thông tin tốt nhất về khuynh hướng và các sự kiện, những gì có thể nhận thấy trước và tất cả những gì có thể thúc đẩy đến cung và cầu của các loại chứng khoán. Thậm chí cả những thiên tai hay thảm họa không dự tính được thì ngay khi xảy ra, chúng đã được thị trường phản chiếu ngay vào giá của các loại chứng khoán.
2. Ba xu thế của thị trường
Thuật ngữ thị trường nhằm chỉ giá chứng khoán nói chung, chao đảo của thị trường phân thành các xu thế giá, trong đó quan trọng nhất là các xu thế cấp 1 (xu thế chính hay xu thế cơ bản). Đây là những biến động tăng hoặc giảm với quy mô to, thường kéo dài trong một hoặc nhiều năm và gây ra sự tăng hay giảm tới 20% giá của các cổ phiếu. Chuyển động theo xu thế cấp 1 sẽ bị đứt quãng bởi vì các do sự xen vào của các nao núng cấp 2 theo hướng đối lập – gọi là những phản ứng hay điều chỉnh của thị trường. Những biến động này hình thành khi thiên hướng cấp 1 lâm thời vượt quá chừng độ ngày nay của bản thân nó (gọi chung các bất định này là các cô động trung gian – cô động cấp 2). Những cô động cấp 2 bao gồm những bất định giá bé hay gọi là những bất định hàng ngày và không có ý nghĩa quan yếu trong Lý thuyết Dow.
3. Xu thế cấp 1
Như đã nói đến ở phần trước, xu thế cấp 1 là những chuyển động mập của giá, bao hàm cả thị trường, thường kéo dài hơn 1 năm và có thể là trong vài năm. Nếu như mỗi đợt tăng giá liên tục đều đạt tới mức cao hơn mức trước đó và mỗi điều chỉnh cấp 2 đều dừng lại ở mức đáy cao hơn mức đáy của lần điều chỉnh trước thì xu thế cấp 1 lúc này là tăng giá – thị trường lúc này là thị trường con bò tót – thị trường tăng giá (Bull Market) Còn trái lại nếu mỗi cô động giảm đều làm cho giá xuống những mức thấp hơn còn mỗi điều chỉnh đều không đủ mạnh để khiến cho giá tăng lên tới mức đỉnh của những đợt tăng giá trước đó thì xu thế cấp 1 của thị trường lúc này là giảm giá, thị trường được gọi là thị trường con gấu – thị trường giảm giá (Bear Market).
thông thường, về lý thuyết thì xu thế cấp 1 chỉ là một trong 3 loại xu vậy mà một nhà đầu tư dài hạn quan tâm. Mục tiêu của nhà đầu tứ đó là mua chứng khoán càng sớm càng tốt trong một thị trường lên giá, sớm đến mức anh ta có thể chắc chắn rằng thế hệ có độc nhất mình anh ta khởi đầu mua và sau đó nắm giữ tới khi và chỉ khi Bull Market đã đích thực xong và mở đầu Bear Market. Nhà đầu bốn hiểu rằng họ có thể bỏ qua một cách bình an tất cả những sự xen vào của các điều chỉnh cấp 2 và các chao đảo nhỏ do họ đầu bốn dài hạn theo xu thế chính của thị trường. Tuy nhiên với một kinh doanh chứng khoán ngắn hạn thì những biến động của xu thế cấp 2 lại có vai trò quan yếu vì họ kiếm lợi nhuận dựa trên những biến động ngắn hạn của thị trường
4. XU THẾ CẤP 2
Xu thế cấp 2 là những điều chỉnh có ảnh hưởng làm gián đoạn quá trình vận động của giá theo xu thế cấp 1. Chúng là những đợt suy giảm tạm (trung gian) hay còn gọi là những điều chỉnh xuất hiện ở các Bull Market; hoặc những đợt tăng giá hay còn gọi là hồi phục xuất hiện ở các Bear Market. Thường thì những bất định trung gian này kéo dài từ 3 tuần tới nhiều tháng. Chúng sẽ kéo trái lại khoảng 1/3 đến 2/3 mức tăng (hay giảm tùy loại thị trường) của giá theo xu thế cấp 1. Vì đó, chả hạn trong Bull Market, nếu chỉ số giá bình quân công nghiệp tăng liên tục bình ổn hoặc có ngăn cách rất bé và mức tăng đạt đến 30 điểm, khi đó xuất hiện xu thế điều chỉnh cấp 2, thì người ta có thể mong chờ xu thế điều chỉnh này có thể làm giảm từ 10 đến 20 điểm cho đến khi thị trường lặp lại xu thế tăng cấp 1 lúc đầu của nó.
Dẫu sao cũng cần lưu ý là qui tắc giảm 1/3 tới 2/3 không phải là một quy tắc không thể phá tan vỡ nhưng mà nó đơn giản chỉ là một nhận xét về kĩ năng có thể xảy ra nhưng hồ hết các bất định cấp 2 đều bị giới hạn trong mức này. Rất nhiều trong số đó chấm dứt thúc đẩy ở điểm gần với mức 50% mà rất hiếm khi đạt tới mức 1/3. Như vậy có 2 tiêu chí để nhận định một xu thế cấp 2: Tất cả những chuyển động của giá ngược hướng với xu thế cấp 1 kéo dài ít nhất 3 tuần và kéo hoàn lại ít nhất 1/3 mức bất định thức của xu thế cấp 1 (tính từ điểm dứt bất định cấp 2 trước đó tới bất định cấp 2 này, bỏ lỡ những nghiêng ngả nhỏ) thì được coi là thuộc loại trung gian hay còn gọi là bất định cấp 2. Mặc dù đã có những tiêu chí để xác định một xu thế cấp 2 nhưng mà vẫn có những gian truân trong việc xác định thời khắc xuất hiện và thời kì sinh tồn của xu thế.
5. Xu thế nhỏ (Minor)
Đây là những động dao trong thời gian ngắn (dài tối đa 3 tuần, hường chỉ dưới 6 ngày) nhưng mà theo như thuyết Dow đã nói đến, bạn dạng thân chúng không đích thực có ý nghĩa mà chúng góp phần tạo nên các xu thế trung gian. Thường ngày thì một biến động trung gian dù là một xu thế cấp 2 hay là một phần của xu thế cấp 1 xen giữa nhị xu thế cấp 2 liên tục, đều được chia thành từ một dãy gồm 3 hoặc nhiều hơn những dao động bé khác biệt. Xu thế nhỏ là dạng độc nhất trong 3 loại xu thế có thể bị “lôi kéo” (bị tác động). Để tương tác vào xu thế cấp 1 và 2 thì cần những giao tiếp với khối lượng rất bự và điều này hầu như là chẳng thể.
Để làm rõ khái niệm về 3 xu thế của thị trường, ta có thể so sánh với cô động của sóng hồ với một số điểm giống nhau như sau:
Xu thế cấp 1 trong giá chứng khoán giống như những đợt thủy triều lên hoặc xuống. Có thể so sánh thị trường lên giá (Bull Market) với thủy triều lên. Thủy triều dâng nước lên bờ hồ càng ngày càng xa vào sâu trong bờ và đến đỉnh của thủy triều thì lại quay ngược trở về biển. Khi thủy triều rút lại được so sánh với thị trường xuống giá (Bear Market). Và cho dù trong lúc thủy triều lên hay xuống thì luôn có những con sóng đập vào bờ rồi lại lùi lại về hồ. Khi thủy triều lên mỗi con sóng liên tục nhau vào bờ, sóng sau vào sâu hơn sóng trước lại góp phần làm thuỷ triều vào xa hơn trong bờ, nhưng khi thủy triều xuống mỗi con sóng không mang nước ra xa bờ mà nước giảm xuống là bởi sóng sau vào đến bờ ở mức thấp hơn (tụt lại hơn) so với đỉnh của sóng trước, mỗi con sóng bởi vì đó sẽ trả lại dần dần bờ biển như trước khi thủy triều lên. Những con sóng này là các xu thế trung gian, có thể cấp1 hoặc cấp 2 tùy thuộc hướng chuyển động của nó so với hướng của thủy triều vào thời khắc xảy ra xu thế đó.
Mặt đại dương cũng luôn luôn biến động với những gợn sóng nhấp nhô chuyển động cùng chiều, ngược chiều hoặc chuyển động ngang so với hướng của những con sóng lớn – những gợn sóng này thể hiện cho các xu thế bé (những dao động hàng ngày có vai trò không quan yếu như đã nói ở phần trên). Những đợt thủy triều, những con sóng và những gợn sóng bé chính là những hình ảnh so sánh giống nhất đối với những biến giá của một thị trường. Trong những phần sau ta sẽ còn coi xét tới một lý thuyết khác về thị trường gọi là Lý thuyết Sóng Elliott, trong đó mọi bất định của thị trường đều gắn trực tiếp với các con sóng.
6. Bull Market (thị trường con bò tót – thị trường tăng giá)
Một xu thế tăng giá cơ bản thường bao gồm 3 thời kì.
thời gian trước tiên là quá trình “tích tụ”, trong quá trình này, những nhà đầu bốn có góc nhìn xa sẽ tiến hành phê chuẩn các đơn vị, có thể vào thời kì này tổ chức đang suy thoái nhưng nhà đầu tứ nhận thấy kĩ năng doanh ngiệp có thể chuyển biến tình sinh ra tăng trưởng gấp rút, có thể giá cổ phiếu của nó sẽ tăng trong thời kì đến. Đây cũng là thời điểm nhưng cổ phiếu này đang được chào bán rất nhiều vì những nhà đầu tư đang có tâm lý rất chán nản và lo lắng về tình trạng của những cổ phiếu của họ và để nhằm tăng dần giá chào bán của họ khi thị trường sinh ra sự suy giảm trong khối lượng giao dịch. Các phiên bản báo cáo tài chính của đơn vị đó có thể không tốt thậm chí rất tồi. Công chúng hoàn toàn cảm thấy thuyệt vọng khi tham dự vào thị trường chứng khoán bởi họ thấy lượng tiền đã đầu bốn của họ đang giảm giá trị lập cập và có nguy cơ còn giảm nữa, bởi thế mà họ muốn thoát ra khỏi thị trường. Tuy nhiên có thể nhận thấy một điều vào cuối giai đoạn thứ nhất này là trong hoạt động của đơn vị và trong những cô động trên thị trường đã có những biến chuyển tuy thế hệ chỉ ở mức hạn chế, khởi đầu hình thành những đợt tăng giá nhỏ.
Thời kỳ thứ 2 là thời kỳ của sự tăng trưởng khá vững bền. Họat động của doanh ngiệp đang theo dõi gia tăng cường cùng với những khởi sắc trong nội bộ tổ chức và doanh thu của nó cũng tăng dần và mở màn lôi cuốn các mối quan tâm trên thị trường. Đây chính là thời gian mang lại nhiều lợi nhuận cho các nhà kinh doanh chứng khoán theo môn phái phân tách kỹ thuật.
rút cuộc là thời gian thứ 3, trong thời gian này thị trường sôi sục với những cô động của nó. Công chúng rất phấn chấn với từng cô động của thị trường. Tất cả các thông báo tài chính của tổ chức đưa ra đều rất tốt, giá chứng khoán tăng cao ngoài sức hình dung và đang là những vấn đề nóng hổi được đưa lên trang đầu của các tờ báo ra hàng ngày. Đến thời điểm sau khoảng nhị năm tính từ lúc thị trường khởi đầu đi lên, những người ít kinh nghiệm có thể thế hệ cho rằng thị trường lúc này mới kiên cố cho lợi nhuận của họ và muốn tham gia vào thị trường. Mà đích thực thì sau nhị năm, giá đã tăng khá cao, câu hỏi nên đặt ra vào lúc này là “nên bán cổ phiếu nào? ” Chứ không còn là “nên mua cổ phiếu nào ? ” Nữa. Vào cuối thời kì thứ 3, người ta có thể thấy nạn đầu cơ tràn lan, khối lượng giao tiếp vẫn tiếp tục tăng nhưng “air-pocket-stock”* hình thành càng ngày càng nhiều, số lượng cổ phiếu có giá thấp nhưng mà không có giá trị đầu tư cũng gia tăng và cả những đợt tạo ra trái phiếu cũng ít dần đi.
(* Air-pocket-stock là những cổ phiếu bỗng nhiên ngột giám giá mạnh một cách thất thường – có thể là bởi vì nhà đầu bốn bán ồ ạt vì một tin đồn xấu. Lý bởi dùng định nghĩa này là vì nó được so sánh với việc máy bay bỗng nhiên ngột mất độ cao, ngoài tài năng kiểm soát khi chạm mặt air-poket là những dòng khí hướng xuống, liên quan làm mất chiều cao máy bay)
7. Bear Market (Thị trường con gấu – thị trường giảm giá)
Xu thế giảm giá của thị trường cũng được tạo thành ba thời kỳ.
Thời kỳ trước tiên là thời kỳ “phân bổ” (thời kỳ này đích thực mở đầu ở giai đoạn cuối của Bull Market trước đó). Trong thời kỳ này những nhà đầu tư có góc nhìn xa đều nhận thấy rằng doanh thu (và các chỉ số kinh doanh nói chung) của những công ty nhưng họ đang nắm giữ cổ phiếu đều đang đạt mức cao không phổ biến và họ muốn lập cập thoát khỏi vị thế sở hữu cổ phiếu của những đơn vị này. Khối lượng giao tiếp vẫn rất cao mặc dầu đã có những dấu hiệu của thiên hướng giảm, công chúng vẫn rất “năng động” nhưng cũng mở màn có dấu hiệu lo âu và cũng không còn nhiều kỳ vọng kiếm lợi nhuận.
Thời kỳ thứ nhì được gọi là thời kỳ “hỗn loạn”. Số lượng người mua mở đầu giảm dần và những người bán mở màn trở lên vội vàng bán đi những cổ phiếu mình đang nắm giữ. Xu thế giảm giá mở đầu tăng nhanh làm đồ thị giá gần như dốc thẳng xuống và khối lượng giao du đạt đến mức cực điểm. Thời đoạn này được gọi là hỗn loàn vì sự sụt giảm thường xảy ra rất trầm trọng thậm chí là thái quá với mức độ vượt quá cả thực trạng của các công ty. Sau giai đoạn hỗn loạn có thể có thời đoạn hồi phục (một dạng xu thế cấp hai) hoặc một thời đoạn ngả nghiêng ngang của đồ thị thị trường (các nghiêng ngả không có hướng đi lên hay đi xuống mà là nghiêng ngả trong một khoảng một mực theo chiều ngang của thị trường) trong một thời gian tương đối dài. Thời đoạn này mô tả tâm lý chán nản của một phòng ban nhà đầu tư, họ cũng chính là những người đã cố gắng nắm giữ cổ phiếu qua thời kỳ hỗn loạn trước đó hoặc cũng có thể là những người đã mua cổ phiếu trong thời kỳ đó do lúc đó giá của cổ phiếu rõ ràng là rẻ hơn rất nhiều so với trước đó vài tháng. Thông báo về các tổ chức ngày một xấu đi. Kết thúc giai đoạn này mới bước vào thời kỳ thứ ba.
Vào thời kỳ thứ ba, xu thế đi xuống trên thị trường đã yếu dần, nhưng lại được duy trì do những lệnh bán nhiều và liên tiếp thể hiện “nỗi buồn” và sự lo âu của những nhà đầu tứ đang rất cần tiền cho những nhu cầu riêng của họ. Các cổ phiếu đều giảm tới mức thấp nhất, thậm chí gần như mất hoàn toàn giá trị. Những cổ phiếu có chất lượng cao hầu như không được giao du do những người chiếm hữu chúng đều muốn nắm giữ đến cùng. Ở thời đoạn cuối của Bear Market, như một kết quả của toàn thể thời kỳ giảm giá trước, cả thị trường chỉ tụ họp vào giao du một số loại cổ phiếu. Bear Market chấm dứt tất cả với những tin xấu về các công ty, về thị trường ở mức có thể coi là tồi tệ nhất đã mô tả ra và có thể tới
8. Hai đường chỉ số bình quân của thị trường phải cùng công nhận xu thế của thị trường.
Đây là câu hỏi thường xuyên đặt ra nhất và cũng khó giải thích nhất đối với hệ thống các lý lẽ của lý thuyết Dow. Ngoại giả từ khi được đưa ra cho đến nay nó đã được thời kì chứng minh tính đúng mực và nó vẫn được vận dụng cho tới ngày nay và bất kì một ai đã coi xét những số liệu đánh dấu thì đều chẳng thể có quan điểm phản đối với phương pháp này. Còn với những người ít quan tâm hay bỏ qua lý lẽ này thì trong thực tại kinh doanh đã và sẽ phải nhiều lần cảm thấy nhớ tiếc. Điều lý lẽ này muốn nói đến là chẳng thể có một dấu hiệu chính xác nào về sự chỉnh sửa xu thế thị trường có thể được khẳng định chỉ phê chuẩn phê chuẩn bất định của độc nhất một loại chỉ số bình quân (ở đây muốn nói tới những thị trường bao gồm nhiều chỉ số bình quân, chả hạn như ở Mỹ, như nói ở phần đầu, có nhị loại chỉ số bình quân).
phân tách kỹ thuật chứng khoán – ký thuyết dow
Chỉ số bình quân bên dưới chỉ ra thị trường đi xuống
Chỉ số bình quân phía trên chỉ ra thị trường đi lên
Như vậy thị trường sẽ vẫn đi xuống do cả nhị không cùng xác nhận một sự đảo chiều trong xu thế hiện tại của thị trường.
Chỉ khi nào cả chỉ số bình quân cũng chỉ ra là thị trường đang có xu thế đi lên thì ta mới có cơ sở xác nhận một dấu hiệu về sự đổi chiều của xu thế chính. Trong hình vẽ trên, trừ khi có một bất định nào khác nếu không chỉ độc nhất chỉ số bình quân bên dưới sẽ không để chuyển hướng thông thường của thị trường mà thậm chí còn bị kéo xuống. Xu thế cấp 1 của thị trường rõ ràng vẫn chưa rõ ràng. Đây là một thí dụ áp dụng nguyên tắc về sự xác nhận. Không quan trọng cả nhị chỉ số bình quân phải cùng xác nhận vào 1 ngày. Thường thì cả nhì chỉ số này sẽ cùng chuyển động tới cùng một khoảng đỉnh hoặc đáy thế hệ, mà có nhiều trường hợp nhưng mà một trong nhị chỉ số sẽ trễ hơn chỉ số kia vài ngày, vài tuần, thậm chí là một tới nhị tháng. Trong những cảnh huống như vậy thì nhà đầu tư phải giữ kiên nhẫn và đợi cho đến khi thị trường thật sự biểu thị ra thực chất khuynh hướng của nó.
9. Khối lượng giao du vận dụng kèm với xu thế thị trường.
Điều này mô tả một thực tế là khi giá cô động theo đúng xu thế cấp 1 thì các họat động kinh doanh trên có xu hướng mở rộng hơn. Bởi vậy, với Bull Market, khối lượng giao thiệp sẽ tăng nếu giá tăng, và sẽ thu lại nếu giá giảm; với Bear Market giá trị giao thiệp sẽ tăng nếu giá giảm và ít khi giá có dấu hiệu bình phục. Điều này vẫn đúng ở mức độ thấp hơn tức là với những xu thế cấp 2, khác biệt là trong giai đoạn đầu của một xu thế hồi phục cấp 2 trong một Bear Market, khi nhưng các tình tiết của thị trường chỉ ra rằng giá sé tăng lên theo một số đợt tăng giá nhỏ, còn các bất định kéo giá xuống giảm đi.
Các kết luận ở đây thường không có giá trị nếu chỉ dựa trên tình tiết trong vài ngày và càng không có giá trị với những kết luận dựa trên một phiên giao tiếp lẻ tẻ. Phương pháp này chỉ phát huy hiệu quả nếu dựa trên những tình tiết của khối lượng giao du bình thường trong thời kì giao du tương đối dài. Hơn nữa, theo Lý thuyết Dow thì chỉ dựa trên những phân tách về giá mới có thể đưa ra được những dấu hiệu mang tính quyết định về xu thế thị trường, còn khối lượng giao tế chỉ có thể cung cấp thêm những bằng cớ phụ để giải thích rõ hơn biến động của thị trường và dùng vào những cảnh huống khi dấu hiệu đính tỏ ra còn nhiều nghi hoặc.
10. Đường ngang có thể thay thế cho các xu thế cấp 2.
Đường ngang theo định nghĩa của Lý thuyết Dow là những chuyển động ngang có thuộc tính trung gian của thị trường đề đạt thời kỳ nhưng mà giá bất định rất ít (với thị trường Mĩ là nhỏ hơn hoặc bằng 5%). Đường ngang thường kéo dài từ 2 tới 3 tuần hoặc nhiều lúc là lâu hơn (trong vài tháng). Khi thị trường hình thành mô hình dạng đường ngang, điều này chỉ ra rằng áp lực của cung và cầu trên thị trường là tương đối cân bằng.
thực tiễn trong thời đoạn này các lệnh đặt mua hoặc bán đều diễn đạt một sự kiệt sức. Những người muốn mua cổ phiếu thì phải tăng mức giá chào mua để khuyến khích người có cổ phiếu mà họ muốn bán cho họ, còn những người muốn bán thì với thị trường có bất định dạng đường ngang họ thấy rằng số lượng người mua đang ít dần và kết quả là họ phải giảm giá để có thể bán được những cổ phiếu của mình. Thành ra một mức giá ngả nghiêng vượt ra ngoài mức dao động của mô hình đường ngang đang hình thành trên thị trường sẽ là một dấu hiệu rõ ràng cho một thị trường lên hoặc xuống giá tùy thuộc vào hướng của nghiêng ngả vượt ra ngoài. Nhìn phổ biến mô hình đường ngang càng kéo lâu dài và biên độ nao núng càng nhỏ thì ý nghĩa của chao đảo vượt ra ngoài mô hình đường ngang càng bự.
Mô hình đường ngang thường diễn ra dài trọn vẹn để khoảng thời kì tồn tại của nó mang một ý nghĩa quan yếu đối với những người phân tách thị trường theo trường phái Dow. Những biến động vượt ra ngoài mô hình đường ngang có thể là dấu hiệu cho thấy mô hình này chính là những mức đỉnh hoặc đáy rất quan trọng của thị trường do nếu là đỉnh thì đó chính là giai đoạn “phân bổ” – thời đoạn thuở đầu của một Bear Market; còn nếu dấu hiệu cho thấy nó có thể là mức đáy của thị trường thì đây là giai đoạn “tích tụ” – thời đoạn đầu của một Bull Market. Bình thường nhất, nó đóng vai trò như một thời kỳ yên tĩnh thuộc giai đoạn rốt cục trong quá trình sinh ra hoặc thuộc thời đoạn củng cố xu thế cấp 1 của thị trường. Trong những trường hợp đó mô hình này vào vai trò như những sóng cấp 2. Mức bất định 5% cũng hoàn toàn chỉ là một mức biên độ được xác định theo kinh nghiệm bởi vì trên thực tiễn rằng mô hình đường ngang có rất nhiều điểm đồng nhất với mô hình cũng có nhiều biến động ngang với biên độ mập hơn nhưng nhị biên của nó vẫn được xác định khá rõ ràng và tương đối chuẩn nên cũng được tính là một loại mô hình đường ngang.
11. Chỉ dùng mức giá đóng cửa để nghiên cứu.
Lý thuyết Dow không quan tâm và ít đề cao tới các mức cô động giá (thậm chí là cả mức giá cao nhất và thấp nhất) trong ngày nhưng chỉ quan hoài đến những số liệu cuối ngày giao du, chả hạn như mức bình quân giá bán cuối cung trong ngày.
coi xét một thị trường với xu thế căn bản là tăng giá và đang ở thời khắc giá tăng và đạt mức đỉnh của ngày hôm đó vào 11 giờ sáng, giả tỉ lúc đó chỉ số bình quân đang là 152.45 sau đó lại giảm xuống mức giá đóng cửa là 150.70. Để có thể xác nhận thị trường vẫn đang trong xu thế căn bản là tăng giá thì ở đợt tăng giá tiếp theo mức giá đóng cửa phải cao hơn 150.70. Trong trường hợp này mức đỉnh 152.45 không được quan tâm đến. Ngược lại nếu ở đợt thứ 2, dù giá có đạt tới mức đỉnh ở 152.60 nhưng mà giá đóng cửa lại bé hơn 150.70 thì hoàn toàn có cơ sở để nghi hoặc liệu xu thế tăng giá hiện tại có còn tiếp tục hay không.
Trong những nắm gần đây, nhiều ý kiến đã được đưa ra bao quanh vấn đề liệu chỉ số giá bình quân phải gia tăng hay giảm đi bao nhiêu so với giới hạn đạt được của đợt nghiêng ngả giá trước (đỉnh hoặc đáy) để có thể báo hiệu (xác nhận một xu thế mới hoặc công nhận lại xu thế hiện tại) xu thế thị trường. Dow và Hamilton luôn rất chu đáo trong việc xem xét bất cứ một động dao nhỏ nào xen vào xu thế hiện tại làm giá chỉnh sửa thậm chí đến 0. 01 Và nhì ông đều cho rằng dấu hiệu đó hoàn toàn có thể là một dấu hiệt đúng. Mà ngày nay nhiều nhà phân tách cho rằng mức chỉnh sửa đó phải đạt chí ít 1.00 thế hệ có thể được coi là một dấu hiệu của thị trường.
12. Một xu thế cần được giả định rằng vẫn đang tiếp tục cho tới khi có một dấu hiệu thực sự về sự đảo chiều của xu thế đó được xác định.
phép tắc này là một trong những phép tắc có nhiều quan điểm bàn cãi nhất. Mà khi được hiểu chính xác nó vẫn có giá trị rất mập trong phân tách thị trường. Phép tắc thứ mười nhị giúp phòng ngừa với những thay đổi (phản ứng) quá sớm trong ý kiến về thị trường, theo như chúng ta hay nói là “cầm đèn chạy trước ô tô”, của bất kì nhà đầu bốn nào. Điều này không nhằm làm nhà đầu bốn trì hoãn hành động của mình lại một cách không cần thiết, cho dù là chỉ một phút, khi những dấu hiệu về sự thay đổi của xu thế thị trường là đã rõ ràng, mà nó nhắc nhở một điều rằng lợi thế sẽ nghiêng về phía những người biết kì vọng cho tới khi họ kiên cố về tình hình thị trường và rõ ràng sẽ không nghiêng về những người quá nóng vội với hành động của họ. Kĩ năng xảy chẳng thể được phát hiện một cách rõ ràng do bản chất của nó là những cô động thực tại của thị trường và chúng chỉnh sửa thường xuyên. Bull Market chẳng thể lên giá mãi và Bear Market thì sớm muộn cũng đạt đến đáy của nó. Khi một xu thế cấp 1 của thị trường vừa thế hệ được sinh ra thì cho dù có những ngả nghiêng trong ngắn hạn ta vẫn có thể vững chắc rằng nó không thay đổi, nhưng mà nếu nó kéo dài càng lâu thì mức vững chắc càng ít dần đi, các điểm tái công nhận xu thế thị trường cũng có giá trị ít dần đi. Động lực của người mua và khả năng bán được những cổ phiếu với giá cao hơn giá mua để kiếm lời sẽ ngày càng thấp giả dụ Bull Market đã tồn tại trong nhiều tháng và rõ ràng là thấp hơn khi nó mới sinh ra.
Một hệ quả tất yếu từ cách thức này đó là khi đã có những dấu hiệu về sự chỉnh sửa của xu thế thị trường thì sự thay đổi đó có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Cho nên bất cứ nhà đầu tư nào cũng cần phải theo dõi thị trường một cách thường xuyên.
Phần mềm datafeed là phần mềm thay đổi dữ liệu kinh doanh thị trường chứng khoán của công ty Vndriect, đây là một phần nào đó mềm hỗ trợ cho các chủ đầu tư dự án đầu tư và chứng khoán trong vấn đề phân tích Ác liệu chứng khoán theo trường phái phân tích kỹ thuật. Bài luận đã gợi ý Anh chị em cách sử dụng cùng cài phần mềm thay đổi độc ác liệu chứng khoán này.
Ưu cùng nhược điểm của phần mềm update ác ôn liệu đầu tư và chứng khoán mang lại Amibroker của Vndriect
Ưu điểm:
cập nhật ác nghiệt liệu Realtime
chỉ là dễ áp dụng.
toàn bộ hung ác liệu EOD lịch sử
thay đổi LIÊN TỤC trong phiên
theo ý mình bố trí báo giá mã hưởng quyền
đã có thay đổi Intraday mã các đại lý liên tục trong phiên
Phần mềm thay đổi dữ liệu kinh doanh thị trường chứng khoán cho Amibroker